Lê Quỳnh Mai thực hiện

Phỏng vấn Trần Vũ

 

 

 

LQM: Một thập niên trước, khi truyện ngắn Mùa Mưa Gai Sắc(1) xuất hiện trên tạp chí Hợp Lưu đã gây ra cuộc bàn cãi sôi nổi trong văn giới. Rồi sau đó, các tác giả Bùi Vĩnh Phúc, Nguyễn Mạnh Trinh, Phan Huy Ðường, Thụy Khuê, Nguyễn Xuân Hoàng, Trương Vũ, Nguyễn Văn Trung, v.v.. đã bàn luận về tập truyện Cái Chết Sau Quá Khứ giống như Nguyễn Hưng Quốc, Nguyễn Ngọc Bích, Hoàng Khởi Phong, Bùi Bảo Trúc trước đây đã viết về Ngôi Nhà Sau Lưng Văn Miếu. Nhìn chung, có nhiều so sánh giữa Mùa Mưa Gai Sắc với trường thiên tiểu thuyết Sông Côn Mùa Lũ của Nguyễn Mộng Giác. Suy nghĩ cá nhân của ông về vấn đề này?

 

TV: Trước nhất, tôi nghĩ không thể so sánh một truyện ngắn giới hạn trong một hình ảnh âm bản, một khúc đời thái lát, đôi ba nhân vật phẩu thuật, như trường hợp Mùa Mưa Gai Sắc với một trường thiên tiểu thuyết công phu, trên ngàn trang giấy, trải dài từ chiếc nôi của biến động Bình Ðịnh ra Bắc Hà, trở ngược xuống Bến Ván, rồi vào Gia Ðịnh với cả trăm nhân vật, với tham vọng ghi lại toàn bộ thăng trầm đất nước ở vào thời kỳ lên sởi “da beo”, với những vùng “tạm chiếm” hoặc đã “giải phóng” như trong Sông Côn Mùa Lũ. Truyện ngắn Mùa Mưa Gai Sắc không có tham vọng đó và thể loại truyện ngắn không cho phép tham vọng ấy.

Với Sông Côn Mùa Lũ, Nguyễn Mộng Giác đi tìm bình dị con người trong vĩ nhân. Với Mùa Mưa Gai Sắc tôi đi tìm dã thú trong con người. Hai mục đích khác nhau. Mặt khác, tôi không viết truyện lịch sử.

 

LQM: Ông chưa trả lời toàn vẹn câu hỏi. Vì sao có sự so sánh giữa hai nhân vật Ngọc Hân-Nguyễn Huệ của Mùa Mưa Gai Sắc và trong Sông Côn Mùa Lũ? Tiện đây xin hỏi thêm mối tương quan giữa Trần Vũ và Nguyễn Mộng Giác, mà dường như đã khơi nguồn cho truyện ngắn gây nhiều bất mãn này?

 

TV: Chuyêïn rất dài... So sánh của giới phê bình và điểm sách mà tôi được đọc trên các nhật trình và tạp chí Việt ngữ, chủ yếu tập trung quanh hình ảnh dã man của Nguyễn Huệ, cũng như mối thâm thù toan tính ám sát Huệ của Lê Ngọc Hân trong Mùa Mưa Gai Sắc. Ðây là trái biệt chính. Huệ trong Sông Côn Mùa Lũ rất hiền hoà, trong sáng, Hân thắm thiết, đằm thắm, ngoan ngoãn... nhưng có lẽ, nên bắt đầu từ mối tương quan vô hình giữa tôi và nhà văn Nguyễn Mộng Giác.

Tất cả đã bắt đầu rất sớm, cách đây hai thập niên. Lúc đó và cho đến bây giờ, nhà văn Nguyễn Mộng Giác đã luôn là một nhà văn đàn anh, người đã đem đến cho tôi vô vàn say mê với tập truyện Ngựa Nản Chân Bon. Chính năm 84, khi tôi chưa viết truyện, Nguyễn Mộng Giác với tập 1 Những Ðợt Sóng Ngầm của trường thiên Mùa Biển Ðộng đã lôi tôi vào thế giới văn chương mà tôi vừa biết đến ở Sàigòn trước 75, rồi đứt khúc.

Có thể xem, một trong những yếu tố khiến tôi bước chân vào văn xuôi là do hấp lực của Mùa Biển Ðộng. Tôi đã “mê” nhân vật Diễm rất nhiều, mê những giọt mồ hôi ẩm trên ngấn cổ cô Diễm những trưa nắng mang thau nước rửa mặt cho Ngữ bên xưởng vẽ của Ngô. Mê cách trao thân hết mình của Diễm dưới chân cầu Gia Hội cho Ngữ. Mê cách sống không hối tiếc và quyết tâm làm giàu sau khi gạch bỏ tình yêu của Diễm. Nguyễn Mộng Giác rất thành công trong mô tả phụ nữ miền Nam trước 75. Như Nam, thiếu nữ dấn thân và thần thánh Tường, giáo sư triết của trường Quốc Học, thần thánh trong đời sống, trong tình yêu, trong cả nhẫn nhục chịu đựng. Nguyễn Mộng Giác phân tích tài tình đời sống, từng trạng huống tâm lý, đi từ lãng mạn tột độ, băn khoăn cùng cực, vui sướng hết mức đến hốt hoảng, đăm chiêu, tuyệt vọng rồi liều lĩnh. Nhân vật Tường, cũng đầy sôi động. Trước khi nhảy núi, Tường trở về nhà mắng cha, ông Thanh Tuyến, đã lái xe Toyota bằng máu của nhân dân lao động...

Ðã hai thập niên trôi qua mà tôi vẫn còn nhớ như in không khí của gia đình ông Thanh Tuyến, rõ ràng là không khí của gia đình tôi, từ nếp sống, cách sinh hoạt, nếp suy nghĩ, phản xạ trước chánh quyền, trước đám đông, thói quen xã hội... Gia đình tôi, một gia đình Bắc di cư, mà không hề khác gia đình ông Thanh Tuyến bố của Tường, một gia đình Huế. Ðiều đó cho thấy Nguyễn Mộng Giác đã tái tạo được đơn vị gia đình Việt Nam trong tiểu thuyết của ông.

Ðã hai thập niên mà ở hải ngoại chưa có cuốn tiểu thuyết nào làm tôi say mê nhiều hơn vậy. Ði làm ôm theo, ngồi trong xe lửa đọc miên man, vào công ty gấp sách lại chỉ mong chóng mau đến giờ hết việc, xuống xe điện, mở tập 2 Bảo Nổi, các nhân vật lại sống trở lại, cười nói, yêu khóc giận hờn, từng màu áo, sắc son môi, khoé mắt, tưng bừng trên trang giấy, làm như mình chưa hề rời xa họ một giây phút nào, đã thân thiết với họ tột bực, đã sống chung, chia sẻ tận cùng đời sống thầm kín của từng người. Tuyệt diệu là tất cả đã xảy ra, diễn ra, sinh sống trên cái nền lịch sử tan vỡ của miền Nam trước 75, khởi đi từ thao thức sinh viên, tranh đấu miền Trung, Phật giáo xuống đường... Nguyễn Mộng Giác ghi lại được hết tất cả những chuyện ấy, nhỏ nhặt từ trong nhà ra đến ngoài chợ, từ trong trường học ra tới đồn Mang Cá. Các đoạn đánh nhau ngoài Huế, Việt Cộng núp dưới chân Chúa khiến Thủy Quân Lục Chiến Hoa Kỳ càu nhàu vừa bi hài vừa chết chóc như trong Full Metal Jacket của Stanley Kubrich (quay sau mấy năm). Sau Tình Ca Trong Lửa Ðỏ, Giải Khăn Sô Cho Huế Ðổ Nát của Nhã Ca, bút ký chiến trường của Phan Nhật Nam và ký Quảng Trị của Dương Nghiễm Mậu, tôi thật sự khám phá chiến tranh, biến động xã hội và miền Trung qua Nguyễn Mộng Giác. Tiểu thuyết ngoài nước bây giờ chai sạn vì không còn những Mùa Biển Ðộng nữa. Và cũng không chỉ ngoài nước, cả trong nước, chưa có cuốn tiểu thuyết nào mang kích thước, chiều kích sánh bằng. Cùng thể loại, Vỡ Bờ của Nguyễn Ðình Thi, Ðống Rác Cũ của Nguyễn Công Hoan là những trường thiên đọc chán vô cùng.

Trả lời dài ...trường thiên như vậy, để cô hiểu nỗi say mê tiểu thuyết Nguyễn Mộng Giác của tôi, đã bắt đầu từ buổi sáng xám trắng, ảm đạm, một nhóm thuyền nhân vô tình phát giác có kẻ thắt cổ chết trong căn lều bên cạnh, rồi im lặng thao thức cho số phận con người trên cái nền trầm trầm của kinh thánh. Những trang Ngựa Nản Chân Bon đó, Nguyễn Mộng Giác đã viết ngày ông vừa đặt chân lên trại tỵ nạn Galand-Nam Dương. Ðó là năm 82. Tôi cũng vừa rời Phi Luật Tân, vừa chứng kiến cảnh thuyền nhân tự tử trong trại đảo Puerto Princesa City vì bị ...từ chối đi Mỹ, vừa đặt chân đến Âu châu. Tôi đã gặp Nguyễn Mộng Giác khi ấy.

Khi ấy, giai đoạn 82-84, văn học hải ngoại đang thành hình và Nguyễn Mộng Giác là một trong những tác giả chính. Khi ấy, Nguyễn Mộng Giác đáp ứng tâm tình của độc giả vì ông đã thể hiện tâm tình thật của chính ông, một cá nhân chìm trong loạn lạc nội chiến của đất nước.

Nhưng 7 năm sau, đến Sông Côn Mùa Lũ thì tôi thất vọng. Cuốn trường thiên này thiếu sôi nổi, thiếu “sức mạnh” túm bắt, xô, đẩy, đạp người đọc vào trong tiểu thuyết rồi giặt dũ cho đến tả tơi, rã rời mê đắm. Sông Côn Mùa Lũ không có chất mê hoặc của những tác phẩm quỷ quái như Anh Em Nhà Karamazov. Ðộc giả không bắt được nhân vật, quá trơn tru, thiếu sần sùi, ít góc cạnh. Nói cách thô lậu là người đọc không ăn nằm được với nhân vật. Lý do, theo tôi nghĩ, vì nhà văn Nguyễn Mộng Giác đã viết trường thiên này thời gian ở Việt Nam sau 75. Thiếu tự do sáng tác, lo lắng trước các chính sách văn hóa của nhà nước, khiến ông đã không thể đẩy nhân vật đến cùng, mà phải chọn vị thế trung dung, an toàn, do đó tất cả nhân vật đều chung chung ...“ít vấn đề”. 

Lúc đó, khoảng 1991, mua mấy tập Sông Côn Mùa Lũ khá mắc, tôi bực mình với Nguyễn Huệ của Nguyễn Mộng Giác ở An Thái vô cùng. Có mỗi bàn tay nhỏ nhắn xinh xắn của An mà cũng không dám nắm. Ðọc mấy trăm trang sách không biết đến chừng nào An-Huệ mới cầm tay, hôn môi. Nhát cáy như vậy làm sao Huệ đánh Ðông dẹp Bắc, 4 lần vào Gia Ðịnh, 3 lần ra Bắc Hà, thảm sát Minh Hương, diệt quân Xiêm ở Rạch Gầm, giết thuộc hạ Nguyễn Hữu Chỉnh-Vũ Văn Nhậm, chưởi mắng dứt bỏ tình huyết thống đạo lý luân thường để đảo chánh anh ruột Nguyễn Nhạc, về sau còn đục thuyền cho thân nhân gia đình Ngọc Hân chết chìm...

Quang Trung hoàng đế, con người đó, lạ thay, dưới ngòi bút Nguyễn Mộng Giác vô cùng lành với chư tướng, do dự và nhút nhát trước phái yếu.

Với tôi, ấn tượng đầu tiên sau khi đọc Sông Côn Mùa Lũ là Nguyễn Mộng Giác khắc hoạ nhân vật Huệ không thành công. Người đọc không bắt được thần thái uy lực của Huệ, một trong những yếu tố chính, vì thiếu uy lực đó sẽ không có Huệ. Nguyễn Huệ trong Sông Côn Mùa Lũ là bản sao của Ngữ, một... trung sĩ địa phương quân trước khi đi học khoá sĩ quan trừ bị Thủ Ðức trong Mùa Biển Ðộng. Các nhân vật khác trong Sông Côn Mùa Lũ cũng đều là bản sao của Mùa Biển Ðộng, mặc dù họ “sinh” ra trước Mùa Biển Ðộng.

Ngay khi gấp sách, tôi quyết định viết một truyện ngắn phác hoạ lại Nguyễn Huệ, đúng theo suy nghĩ của mình. Hoàng đế Quang Trung trong tâm trí tôi phải mang hình ảnh Thành Cát Tư Hãn, vó ngựa trường chinh, bách chiến bách thắng và có chất ...thổ phỉ!

Phần khác, tôi không tin Lê Ngọc Hân có thể yêu Nguyễn Huệ ngay phút đầu tiên, dễ dàng và say đắm. Khác biệt giai cấp, văn hoá, tâm lý quá lớn. Chưa nói đến thù cha, thù nhà, nợ nước, khiến Ngọc Hân khó mà... vô tư. Sau 75, các tiểu thư Sàigòn trong một thời gian dài đã không vô tư, trừ phi làm Vương Thúy Kiều liều mình chuộc cha đi học tập, đa số đã từ chối các “anh hùng quân đội nhân dân”. Tôi muốn thể hiện lại điều đó, sự chối từ áo vải cờ đào của những thiếu nữ kinh kỳ sinh sống nơi kinh đô bị chiếm đóng.

Mùa Mưa Gai Sắc ra đời trong suy nghĩ đó, với ước muốn tân tạo hình ảnh Nguyễn Huệ trong đầu mình, như mình muốn, trong tự do tuyệt đối.

Tất nhiên không phải hình ảnh truyền thống của môn lịch sử học đường, và sự khác biệt này không hề tàn phá lòng quý trọng của tôi đối với nhà văn Nguyễn Mộng Giác, là một nhà văn đàn anh, người đã giữ lửa, đã làm đầu tàu thúc đẩy văn học hải ngoại trong hai thập niên vừa rồi.

 

LQM: Theo Trần Vũ, nền tiểu thuyết Việt Nam đang ở đâu? trong thời điểm hôm nay, cuối năm 2003 này? Ông đã tổng kết 12 năm sinh hoạt trên tạp chí Hợp Lưu, chắc cũng có thể “tổng kết” tiểu thuyết?

 

TV: Nền tiểu thuyết Việt Nam đang ở đâu? hôm nay? Ðây là một câu hỏi mênh mông. Tổng kết một ...nền tiểu thuyết chưa thành hình, đòi hỏi cả một bài nghiên cứu, tra cứu tỉ mỉ, trích dẫn tùm lùm, không thể “tổng kết” trong phạm vi một bài phỏng vấn, nhưng tôi sẽ cố gắng phân tích một vài điểm trên khía cạnh nổi của bề mặt tiểu thuyết. 

Về thống kê, trong suốt năm vừa qua, theo Phạm Thị Hoài mà tạp chí Talawas đặt mua, ngành xuất bản VN quốc nội in ấn 100 đầu tiểu thuyết. Ngành in ấn tại Pháp, chỉ cho riêng đầu tháng 9/2003, xuất bản 691 tiểu thuyết. Nếu không tính 236 tiểu thuyết ngoại quốc phiên dịch sang Pháp ngữ, con số còn lại là một mức chênh lệch quá lớn, giữa một dân tộc có 2000 năm văn hiến với 60 triệu dân và một dân tộc có 4000 năm văn hiến với 80 triệu dân. Nền tiểu thuyết Việt Nam ở đâu? hôm nay? cuối năm 2003? Thống kê trên trả lời cho câu hỏi của cô.

 

LQM: Bước ra ngoài thống kê?

 

TV: Bước ra ngoài thống kê chỉ có thể đi tìm những lời bào chữa. Không thể so sánh Việt Nam với Pháp, một đế quốc đã có nhiều mươi thế kỷ truyền thống văn xuôi, một đế quốc đã từng có nhiều thời kỳ hoàng kim? Khó là một giải thích duy nhất.

Vì sao hôm nay thể loại truyện ngắn thịnh hành trong lúc thể loại tiểu thuyết được độc giả ưa chuộng lại vắng bóng? Nhà văn Việt không còn muốn viết dài?

Các sáng tác hai, ba trang và từng câu mỗi ngày một nhiều. Văn xuôi Việt Nam đang ...teo lại. Trong chiều hướng này, với thể loại truyện Câu đang bành trướng, sẽ phát sinh ...truờng thiên tiểu thuyết cực ngắn gồm nhiều chương, mỗi chương với một câu duy nhất. Tôi không tin lắm vào khả năng của truyện thật ngắn hay cực ngắn, cho dù là thể loại thích hợp với các diễn đàn internet, cho dù truyện thật ngắn nổi tiếng Ðường Tăng trong nước và100 truyện cực ngắn của Trần Tất Ðạt trên Tiền Vệ gần đây rất hay, đây là hai tác giả thành công trong hai thể loại ngắn này.

Phần thiếu trầm trọng của văn chương Việt hôm nay nằm ở tiểu thuyết, loại tiểu thuyết nhân vật, ghi lại băn khoăn con người, đột biến xã hội, xáo trộn thời đại, vấn nạn đất nước, diễn tả một cách bình thường hay khác thường… Ðây mới là thể loại thật sự có khả năng chinh phục độc giả Việt, cũng như thế giới.

Thành công của Bảo Ninh hay Dương Thu Hương khi dịch ra tiếng nước ngoài, trước nhất là thành công của thể loại tiểu thuyết. Ðiều đó không có nghĩa truyện ngắn không bằng tiểu thuyết, không thể so sánh thịt bò với cá lóc. Nhưng độc giả VN và thế giới đã chọn lựa, steak và.. bò nhúng dấm! Thời tiền chiến, chính tiểu thuyết Tự Lực Văn Ðoàn và sau 54, tiểu thuyết dịch và tiểu thuyết trong Nam đã lôi cuốn người đọc tạo ra nhiều tầng lớp độc giả và các thế hệ nhà văn đi sau. Ngày nay, cái gì lôi kéo giới trẻ đi vào văn chương? Phê bình? Thi ca? Truyện Ngắn? Thể loại đầu dành cho giới chuyên môn. Thể loại giữa khép kín trong vòng tròn thi sĩ, và thể loại sau đã chứng minh sản phẩm lạm phát, ít khách tiêu thụ.

Kỳ quặc, khi chúng ta biết, truyện ngắn là một trong những thể loại khó nhất của văn xuôi, nhưng nhà văn Việt nào cũng có nhiều mươi đầu truyện... Nina Mc Pherson, dịch giả chánh thức của Dương Thu Hương, trong những buổi tối rủ nhau đi uống rượu khuya, thường kể: Các nhà xuất bản Hoa Kỳ đã luôn ngao ngán, ngán ngẩm lắc đầu mỗi khi cô ôm bản dịch truyện ngắn VN đến chào mời. Lần nào cô cũng nhận một câu trả lời: “Nhà văn Việt Nam có tiểu thuyết không?”

Tại sao trên thế giới truyện ngắn hiếm đi nhưng đến Việt Nam sinh sôi nảy nở kinh dị? Tại sao những bậc thầy truyện ngắn trên thế giới như Borges, Tchékov, Guy de Maupassant... không nhiều và một đời viết văn được dăm truyện ngắn hay đã là nhiều, nhưng ở Việt Nam mỗi nhà văn là một... cỗ máy sản xuất truyện ngắn? và đang gia công sản xuất truyện cực ngắn? Vì đặc thù kinh tế đất nước là một nền sản xuất nhỏ? Tôi chưa rõ lắm. Tôi tự đặt cho mình những câu hỏi. Các câu hỏi mỗi lúc một nhiều thêm lên sau mỗi lần bước chân vào các hiệu sách Việt, tìm mua một cuốn tiểu thuyết, chưa nói xuất sắc, chỉ cần đủ lôi cuốn một tuần lễ, nhưng tìm không ra. Bước chân vào hiệu sách Việt, từ Cali về đến trong nước, từ nhà sách Tú Quỳnh ở Bolsa đến nhà sách Nguyễn Huệ trên đại lộ Nguyễn Huệ Sàigòn là cả một nỗi chán chường. 

Ít tiểu thuyết, càng ít tiểu thuyết hay, trở thành một ác mộng.

Hôm nay, cuối 2003, dường như giới phê bình trong-ngoài nước và giới sáng tác trong-ngoài nước đều đã công nhận khủng hoảng tiểu thuyết này. Nhưng nguyên nhân của ác mộng ở đâu?

Tôi không rõ lắm nguồn cơn ác mộng của hội nhà văn Hà Nội hay TP HCM. Với bên này, tôi lờ mờ trông thấy. Tôi không nghĩ nhà văn Việt không còn muốn viết truyện dài, nhưng tiểu thuyết là một thể loại khó, dài mà không lê thê, vẫn chặt chẽ, xuyên suốt, liền lạc, không dễ viết chút nào. Không thể viết tiểu thuyết nếu không đam mê hết mình, trong một thời gian dài liên tục, không thể viết tiểu thuyết chỉ bằng chộp bắt những góc độ, những mảnh đời, bằng khả năng quan sát ...cuối tuần. Cần cái nhìn rộng, xuyên suốt sự vật, con người, xã hội, cần kinh nghiệm, vốn sống, va chạm, chung đụng, ngôn ngữ, và khả năng tổng hợp, phân tích, quản trị nhân vật… chưa kể đến cấu trúc, giọng văn và khí hậu truyện từ trang đầu đến trang cuối phải nhất quán. Ngần ấy thứ, trong đời sống quá tất bật và đơn điệu ở ngoài nước, khiến tiểu thuyết trở thành một cuộc đầu tư, đầy thách đố.

Tôi không biết có quá hàm hồ hay không khi đặt câu hỏi: Có phải chính vì thiếu tiểu thuyết mà văn học hải ngoại ít độc giả, khiến ngành xuất bản khủng hoảng, do dự mỗi khi in ấn? Nhưng tôi thấy rõ: ngoài nước thiếu một đội ngũ ký giả văn học chuyên nghiệp làm công việc giới thiệu tác phẩm, khiến nhà văn Việt đã luôn phải xuất hiện dưới dạng truyện ngắn trên các tập san văn nghệ để đến với độc giả của họ. Trái lại, ngược hẳn, tiểu thuyết gia ngoại quốc không cần đăng báo, các nhà xuất bản và nhật báo, tạp chí làm công việc giới thiệu, quảng cáo tác phẩm, tiếp cận khách hàng. Ðây là lý do, vì sao, truyện ngắn lấn át tiểu thuyết và tràn lan suốt hai thập niên vừa qua.

Sự trống vắng tiểu thuyết này đưa đến một hậu quả: Văn học hải ngoại là một chuỗi vụn những thành tựu nhỏ. Những hột soàn tấm, cho dù có thật nhiều, hằng hà sa số (trong thực tế ít hơn vậy), cũng không thể thay thế những viên kim cương không cợn than trên 10 ly. Hiếm có tác giả nào ngoài nước, có 10 truyện ngắn thật xuất sắc trong cùng một tập truyện, để tập truyện đó trở thành một hiện tượng.

 

LQM: Với ông, có cách nào thay đổi tình trạng này?

 

TV: Tôi nghĩ đã đến lúc nhà văn Việt ngoài nước cần đi tìm tác phẩm công phu. Từ chối xuất hiện trên mặt báo thường xuyên. Chấm dứt bao sân cho các tập san. Ðộc giả Việt sẽ bằng lòng với tiểu luận như độc giả Pháp đã hài lòng với tiểu luận trên các báo Lire, Magazine Littéraire, Esprit,... rất ít đăng trích đoạn tiểu thuyết và gần như không có truyện ngắn.

Ở thời điểm hôm nay, thêm 5 truyện ngắn hay nữa, không thay đổi văn học VN. Thêm 5 truyện... hay cực ngắn, lại càng không đem đến gì thêm. Ngược lại, với 5 tiểu thuyết xuất sắc, sẽ ghi một dấu mốc, đánh dấu một giai đoạn. Giới sáng tác, một số đã ý thức không thể tiếp tục với truyện ngắn, một thể loại thiếu sức chứa của xe hàng 18 bánh. Tôi chờ đợi rất nhiều ở tiểu thuyết của Thơ Thơ, Mai Ninh, Nam Dao, Lê Thị Thấm Vân, Phan Huy Ðường, Quỳnh Dao, Nguyễn Thị Thanh Bình và truyện vừa Nguyễn Thị Hoàng Bắc đang thành hình. Hy vọng năm 2004 sẽ mở ra một giai đoạn mới: giai đoạn tiểu thuyết ngoài nước. Ðã đến lúc, các chủ biên Nguyễn Xuân Hoàng, Nguyễn Mộng Giác, Khánh Trường, Nguyễn Hưng Quốc nên tiếp tay đẩy mạnh tiểu thuyết bằng cách ưu tiên giới thiệu các trích đoạn, hoặc như tổng biên tập Nguyễn Ðình Thi đã đăng nguyên cuốn tiểu thuyết Thiên Sứ của Phạm Thị Hoài trên tạp chí Tác Phẩm Mới, không hề tiếc trang, khi Thiên Sứ vừa chào đời chưa xuất bản và Phạm Thị Hoài hãy còn là một người viết mới. Ðây là hình thức mà nhà văn Dương Nghiễm Mậu gọi là tiểu thuyết phổ thông và ông đã thực hiện khi làm chủ bút tạp chí Văn Nghệ Sàigòn.

 

LQM: Dưới mắt nhìn của một nhà văn thuộc thế hệ trẻ cầm bút lưu vong, theo Trần Vũ, văn học hải ngoại sẽ đi về đâu? Vấn đề«Ðàng Trong», «Ðàng Ngoài» có còn là một vấn đề lớn để tranh luận như cả một thập niên trước đây không?

 

TV: Cho phép tôi đính chính. Tôi không phải là một nhà văn. Tôi chỉ là người viết truyện lâu lâu gởi đăng báo. Và tôi cũng không còn trẻ nữa, nếu các chủ bút, giới biên khảo vẫn ưu ái xếp vào giai cấp không có quá khứ, điều đó chẳng qua vì không có thế hệ người viết sinh trong thập niên 70 ngoài nước. Thế hệ sinh trong thập niên 60 đang là thế hệ cuối cùng.

 

LQM: Vậy theo ông, thế nào mới là một nhà văn? Và xin ông cho tên một nhà văn Việt Nam điển hình?

 

TV: Với tôi, một nhà văn, ngoài tác phẩm, trước nhất là một người trí thức  có tư cách và cất tiếng nói trước bất công của xã hội, trước chính quyền không sợ hãi, với tất cả trách nhiệm. Nhất Linh Nguyễn Tường Tam là một nhà văn. Ông xứng đáng là văn hào của nước Việt Nam.

 

LQM: Quay lại câu hỏi văn học hải ngoại sẽ đi về đâu... Tham dự giòng văn chương này rất sớm, ông có thể dự báo?

 

TV: Những ngày đầu di tản, thời Thư Gởi Bạn, rồi Lại Thư Gởi Bạn, cho đến những năm 78, 79 trên tạp chí Văn Học Nghệ Thuật, Võ Phiến thường đặt câu hỏi 15 năm sau biết có còn ai đọc chữ Việt nữa hay không? 20 năm sau, câu trả lời đã có: Vẫn còn người đọc, nhưng ...ít người mua. Văn học hải ngoại rồi sẽ nhập với văn học quốc nội để thành một dòng chảy duy nhất: Văn Học Việt Nam. Chậm hay mau, tùy thuộc thủ tục hành chánh hải quan. Nhưng đây là định mệnh của dòng văn chương khát khao tổ quốc va sinh ra từ thảm kịch nội chiến này.

Tương lai trước mắt, thập niên 2000 là thập niên quyết định của văn học hải ngoại. Ða số các tác giả Trịnh Y Thư, Cao Xuân Huy, Phan Thị Trọng Tuyến, Kiệt Tấn, Diệu Tần, Miêng, Nguyễn Thị Hoàng Bắc, Ngu Yên, Tưởng Năng Tiến, Nguyễn ý Thuần, Nguyễn Bá Trạc, Trần Long Hồ, Hoàng Khởi Phong, Nguyễn Xuân Hoàng, Trần Thị Kim Lan, Hoàng Xuân Sơn, Nam Dao, Hồ Minh Dũng, Trần Doãn Nho, Mai Ninh, Ngô Thế Vinh, Nguyễn Xuân Quang, Lê Bi, Lê Thị Huệ, Vũ Huy Quang, Ðỗ Quỳnh Dao, Nguyễn Ðức Bạt Ngàn, Lâm Hảo Dũng, Nguyễn Thị Ngọc Lan, Luân Hoán, Ngự Thuyết, Tam Thanh, Trần Mộng Tú, Bùi Bích Hà, Thái Tú Hạp, Lâm Chương, Song Thao, Phạm Việt Cường, Mai Kim Ngọc, Ngô Nguyên Dũng, Phan Tấn Hải, Trùng Dương, Túy Hồng, Trần Thị Lai Hồng, Thế Giang, Võ Ðình, Trương Vũ, v.v.. đều đã bước qua khúc quanh dẫn vào xa lộ The Last Pacific Highway... Còn bao nhiêu hoài bão nếu không trút hết ra giấy sẽ đem theo xuống mồ. Ðây là một mất mát lớn, vì thệ hệ nhà văn này đã trải qua nhiều xã hội VN, Pháp thuộc, đệ nhất-đệ nhị Cộng Hoà, xã hội XHCN, tù đày, vượt biển, trại tỵ nạn, xã hội tư bản,... ít có thế hệ nhà văn Việt nào giàu kinh nghiệm, nhiều khổ đau, mất mát, cũng như đã phải trả giá nhiều và tiếp xúc trực tiếp với phương Tây như những nhà văn Việt kể trên. Không còn nhiều thời gian nữa. Những chuyến tàu cuối cùng đã cặp bến. Không lên chuyến này, sẽ không còn chuyến nào nữa.

Thế hệ tôi cũng không còn nhiều thời gian, đồng hồ tay anh Trịnh Y Thư và tay anh Ngô Thế Vinh chỉ 12g đêm kém 5, đồng hồ tay tôi và các bạn bè của mình, Thận Nhiên, Phan Nhiên Hạo, Thơ Thơ, Phạm thị Ngọc, Trân Sa, Nguyễn Hoàng Nam, Nguyễn Thị Thanh Bình, Nguyễn Hương, Ðinh Linh, Hồ Ðình Nghiêm, Hoàng Mai Ðạt, Hồ Như, Nguyễn Thanh Hùng, Lê Thị Thấm Vân, Vũ Quỳnh Hương, Vũ Quỳnh Nh, Thường Quán... chỉ 12 g đêm kém 10. Tất cả còn 5, 10 phút phù du đó, để rong chơi phung phá một lần nữa, sau đó hoá ...bí rợ.

 

LQM: Còn vấn đề «Ðàng Trong», «Ðàng Ngoài» thì sao?

 

TV: Vấn đề «Ðàng Trong», «Ðàng Ngoài»? Cô muốn hỏi vấn đề Nam-Bắc? Vấn đề này... đập vào mắt! Tôi không nghiên cứu xã hội học, cũng không quan tâm đến chính trị, lãnh vực của lựu đạn, hầm chông và mã tấu. Tôi chỉ có thể trả lời cô những gì tôi trông thấy sau những lần về thăm nhà. Miền Nam hoàn toàn Bắc hoá. Toàn bộ guồng máy nhân viên hành chánh, thuế khoá, an ninh trong Nam đều do người Bắc nắm giữ, ngay những chức vụ thấp nhất. Số lượng người Bắc sinh sống trong Nam đông vô cùng, ở Sàigòn, tỷ lệ 4/10 là ít. Người Nam ra Bắc sinh sống ngược lại rất hiếm. Tôi hoàn toàn không phiền hà chi việc người Bắc “di cư” vào Nam sau 75, nhưng tôi thấy rõ miền Nam chịu chính sách cai quản của người Bắc, một cuộc Nam tiến.

Tại sao gần tuyệt đại bộ phận sinh viên du học là người Bắc? tại sao những nhà văn công du quảng cáo văn chương Việt Nam là những nhà văn Bắc? Và tại sao trên mặt văn chương, chỉ một giọng văn Bắc? thuần Bắc? Giọng văn Bắc thường sắc, mạnh, nhưng nhìn toàn cảnh văn học trong nước hôm nay bị đơn điệu. Tại sao có hiện tượng Bùi Hoằng Vị, Nguyễn Quốc Chánh, Trần Tiến Dũng và những nhà văn cũ Dương Nghiễm Mậu, Cung Tích Biền, Nguyễn Thị Hoàng, Nguyễn Thuỵ Long, Trần Thị Ngh, v.v... chỉ xuất hiện trên các tạp chí hải ngoại? Nếu Nam-Bắc cùng tẩy chay nhau, thì nhà văn trong Nam đã tẩy chay hội nhà văn của chính quyền vì họ không có tiếng nói. Không biết bao nhiêu nhà văn trong Nam, những khi gặp, đã nói với tôi họ không xem những hiện tượng văn học ngoài Bắc ra ký lô nào, và những trao giải-không nhận giải đều sắp đặt, cũng như xuất bản, thu hồi, rồi ...tái bản. Và tại sao hội nhà văn, viện văn học, trường viết văn Nguyễn Du, các đại học ngữ văn, đã cử bao nhiêu nhà văn, viện sĩ, nhà phê bình ra nước ngoài tìm hiểu văn học hải ngoại “cánh tay nối dài của Ðàng Trong”, nhưng khi về nước hội thảo, trên văn bản chánh thức đều tránh đề cập? Tại sao Hoàng Ngọc Hiến, Ðỗ Minh Tuấn, Phạm Xuân Nguyên, Nguyễn Huệ Chi, Trần Văn Thủy,... nghiên cứu cộng đồng hải ngoại, văn học hải ngoại cho trung tâm William Joiner Center của Hoa Kỳ nhưng về trong nước họ không thể phúc trình hay công bố nghiên cứu của mình cho dân Việt Nam hay biết một phần máu của dân tộc này đang chảy ngoài nước? Nếu đây là vấn đề «Ðàng Trong», «Ðàng Ngoài» như cô hỏi, thì tôi chứng kiến tận mắt như vậy.

 

LQM: Như vậy vấn đề«Ðàng Trong», «Ðàng Ngoài» sẽù còn là một vấn đề lớn để tranh luận. Nhưng tại sao thuộc thế hệ trưởng thành sau khi chiến tranh chấm dứt, ông không nghĩ phải vượt lên trên vấn đề Nam-Bắc, Quốc-Cộng và phải quên đi quá khứ nội chiến đẫm máu của dân tộc để hướng đến tương lai?

 

TV: Tất nhiên là tôi nghĩ đến, nếu không tôi đã không tham dự tạp chí Hợp Lưu do họạ sĩ Khánh Trường khởi xướng từ năm 91. Tôi hiểu phải biết vượt lên trên vấn đề Nam-Bắc, Quốc-Cộng, không nên để quá khứ hãm hiếp hiện tại. Nhưng tôi cũng biết một khi hiện tại không trung thực thì chiếc bóng của hiện tại sẽ không hoàn chỉnh và bóng tối của quá khứ sẽ trỗi dậy. Tôi sống trong trông chờ một hiện tại trung thực ở quê nhà. Và chỉ trên cái nền sạch sẽ này, tất cả người Việt mới có thể cùng đi vào tương lai.

 

LQM: Trần Vũ có cái nhìn thế nào giữa hai thế hệ sáng tác tại hải ngoại: Thế hệ đàn anh sống trong chiến tranh và Thế hệ trẻ sau chiến tranh?

 

TV: Các thế hệ nối tiếp Tạ Tỵ, Mai Thảo, Dương Nghiễm Mậu, Thanh Tâm Tuyền, Nguyễn Sỹ Tế, Cung Tích Biền, Thế Uyên, Tường Hùng, Nguyễn Ðạt, Cao Xuân Huy, Hoàng Khởi Phong, Nguyễn Mộng Giác, Trịnh Y Thư, Ngu Yên, Nguyễn ý Thuần, Hồ Minh Dũng, Trần Doãn Nho, Tuý Hồng, Nguyễn Thị Hoàng, Trần Thị Ngh, Lê Thị Huệ, Trùng Dương, Trang Châu, Nguyễn Thị Hoàng Bắc, Huỳnh Hữu Uỷ, Vũ Huy Quang, Nguyễn Xuân Hoàng, Hoàng Xuân Giang, Hoàng Xuân Sơn, Trần Thị Lai Hồng, Trương Vũ, v.v.. đều đã thành hình rồi mới tan vỡ sau cuộc nội chiến thảm khốc. Thế hệ tôi, thế hệ theo sau tức khắc, Phạm Thị Ngọc, Vũ Quỳnh Hương, Vũ Quỳnh Nh, Trân Sa, Lê Thị Thấm Vân, Nguyễn Thị Thanh Bình, Nguyễn Thị Ngọc Lan, Nguyễn Thị Ngọc Nhung, Phạm Chi Lan, Y Chi, Hoàng Mai Ðạt, Nguyễn Thanh Hùng, Nguyễn Phước Nguyên, Trầm Phục khắc, Nguyễn Ðức Quý, Thơ Thơ, Ðinh Linh, Bùi Hoằng Vị, Nguyễn Quốc Chánh, Thận Nhiên, Phan Nhiên Hạo, Ðinh Trường Chinh, Nguyễn Danh Bằng, Nguyễn Trung Tây, Ðỗ Lê Anh Ðào, Vương Thúy Lệ, Nguyễn Hương, Thu Hiền Ngô, Bảo Phi, v.v.. tan vỡ trước khi kịp thành hình. Tôi chưa gặp tất cả, nhưng qua sáng tác của họ, tôi thấy rất rõ, chúng tôi cùng thất lạc, cùng trải qua cùng những mất mát, đoạn trường của thế hệ đi trước. Hoàng Khởi Phong đi làm thợ tiện cực thế nào, thế hệ tôi bước đầu cũng cực thế ấy. Cũng cà lăm, không thốt nổi một chữ tiếng Anh, tiếng Pháp, cũng chầu chực xin giấy tờ tỵ nạn, cùng lủi thủi đi bộ đợi xe bus hứng bão tuyết, cũng làm đủ nghề nghiệp, bồi nhà hàng, rửa chén, rửa xe, xin trợ cấp, bị kỳ thị, bất ngờ trước khác biệt văn hoá của quốc gia đến định cư. Lam lũ, nhọc nhằn, nhục nhã, nhớ nhà, nhớ gia đình, cô đơn, đơn độc, một thân một mình, căm phẫn cho mối nhục mất nước, uất ức khi Sàigòn mang tên Hồ Chí Minh, tuyệt vọng... thế hệ tôi nếm đủ, không thua chi các bậc đàn anh. 

Chúng tôi nhìn bên ngoài thấy có vẻ hội nhập, đa số giỏi ngoại ngữ, đa số thành đạt, nhưng có đọc tác phẩm mới thấu nỗi đau câm lặng trong từng cá nhân. Nỗi đau đó, không nghẹn ngào, buồn chín xương như thơ Mai Thảo “nửa đường hương gẫy trên nghìn biển, rụng xuống mười xuân đã đứt lià”, không tiếc nuối quá vãng như Cao Tiêu “hiền sĩ thuở xưa có trăng treo đầu ngõ, tôi có gì đâu ngoài nón trận”, cũng không hương vị Bắc của những cơn mưa phùn Ðất Khác trong thơ Thanh Nam, không băn khoăn “mai mốt anh về có thằng túm hỏi, mày sang bến ấy làm củ gì?” như  Cao Tần, cũng không ngạo nghễ như Bắc Phong, Lâm Hảo Dũng, Nguyễn Ðức Bạt Ngàn, không ngông một cách “zen” tỉnh bơ như Ngu Yên khi nghe két chưởi “tổ cha mày, ngoài trời mây vẫn bay...”, và ít bềnh bồng lãng đãng như Nguyễn Bá Trạc. Nỗi đau của thế hệ tôi câm lặng, chưa rõ hình, không rõ lời, không rõ tiếng, chưa rõ thần, chỉ vì giản dị, đã tan vỡ trước khi kịp định hình.

Trong Florence, cách đây đã hơn một thập niên Phạm Thị Ngọc đặt câu hỏi: “Nước Mỹ có còn gì cho chúng tôi không?” Lúc đó Phạm Thị Ngọc chỉ mới ngoài đôi mươi, đã hoang mang trước lục địa mới. Câu hỏi lập đi lập lại suốt toàn truyện giữa những trận gió lạnh buốt quất qua thềm cửa trông sang ngôi nhà có bà lão tóc bạc. Câu trả lời duy nhất: To Die in Dignity!

Trong Miền Vĩnh Phúc, sau Vận Tốc Trung Bình, sau Nẻo Quyên Ca, Vũ Quỳnh Hương năm 86 lúc đó vừa hơn 30 tuổi, mô tả trong hốt hoảng, thảng thốt tương lai của chính cô đang diễn ra trong một viện dưởng lão Hoa Kỳ với tất cả bản năng basic instinct của con người trước khi lìa đời, với tất cả bần tiện của con người khi còn cách xa địa ngục hoặc thiên đàng. Trân Sa, những ngày vừa đến Gia Nã Ðại miêu tả tâm trạng một thiếu nữ dưới trận bão tuyết tầm tã lầm lũi ra đường đi bộ nhiều cây số tìm mua cho được một điếu thuốc, để trốn cô đơn, rồi đi giữa hai hàng ghế trống với những bóng ma mộng mị ác mộng đeo đuổi. Cao Huy ở Úc mô tả một bà lão bản xứ cầm đồng hồ có mặt kim xoay tít không thời gian, đi từ tầng lầu này sang tầng lầu khác, từ building này sang building khác đuổi theo Cao Huy bén gót. Nguyễn Thanh Hùng, một hoạ sĩ trẻ lâu lâu viết tùy bút, những giòng chữ gần như khóc trên trang giấy, trên tháp chuông chót vót của một mái nhà thờ câm lặng gióng tiếng chuông vô hình bay ngân nga ngang những cánh đồng hoa hướng dương tím tái. Nhược Thủy, trong Phiến Diện, tả một người đàn bà da trắng đã chết có khuôn mặt đẹp tuyệt vời trong một ngôi nhà gỗ thơm củi thông cheo leo giữa lưng chừng núi tuyết, toàn truyện gần không có một tiếng động. Vũ Quỳnh Nh tự buông thả rơi vào những sắc màu nhập nhoè trong những khu phố Geisha sằng sặc tiếng cười phung phá. Lê Thị Thấm Vân trông thấy rõ mồn một bộ phận sinh dục trên thân thể phụ nữ Việt Nam, suốt bốn ngàn năm che dấu. Ðinh Linh cho cô gái điếm trẻ VN chia động từ Être, je suis, tu es, il est, nous sommes... với một khách làng chơi VN còn chập chờn nuối tiếc quá khứ. Phan Nhiên Hạo bị ám ảnh bởi cơn đói trước khuôn viên trường đại học Sư Vạn Hạnh trên đường Trương Minh Giảng cũ. Thận Nhiên những đêm mất ngủ ngồi trước bàn phiếm mơ liên tục những giấc mơ trẻ thơ. Nguyễn Hương tìm kiếm không ngừng nguồn gốc đứt đoạn của thời gian VN. Nguyễn Hoàng Nam, Trần Minh Quân trần truồng không chút ngượng ngùng, quăng bộ phận sinh dục vào mặt tất cả, quăng vào mặt đạo đức xã hội, dân tộc, Khổng Tử, Lão Tử, Trang Tử, Trịnh Công Sơn, gia tài của Mẹ... không chút do dự. Còn nhiều nữa, tôi có thể kể tiếp tục như vậy suốt đêm. Tôi đọc gần như tất cả truyện ngắn ngoài nước. Theo dõi kỹ càng sáng tác của các bạn mình. Tôi không bỏ sót dòng chữ nào của họ. So với trong nước, tuổi trẻ ngoài nước cá tánh và bạo dạn, phóng túng hơn rất nhiều. Họ chỉ chưa rõ rệt, vì đã tan vỡ quá sớm. Ngày nào họ ráp lại tất cả những mảnh vỡ họ nhặt lên từ mặt đất này, nơi cho phép tự do nhặt nhạnh ngay cả những miểng chai quốc cấm, lúc đó, Việt Nam sẽ thật sự có một nền văn học mới, có đủ tri thức, kinh nghiệm nhân loại, hiểu rõ tây phương và biết rõ giá trị con người sau khi đóng thuế. Hãy đợi thế hệ sau chiến tranh thêm 5, 10 phút nữa. Ðã thực sự trưởng thành, đã bắt đầu lên đường, và đang nhận trách nhiệm. Có hơi muộn, nhưng không thể khác hơn, chúng tôi cũng tự túc lo cơm áo, nhà, xe, trợ cấp, học hành, ly dị, du lịch VN, nuôi con y như thế hệ đàn anh. Chỉ sau 5,10 phút. Trưởng thành sau 5,10 phút và sẽ chết sau 5,10 phút ở Tokyo, London, NewYork, Victoria, Melbourne, Los Angeles, Paris, Berlin, Québec, Montréal, Toronto... Nhưng 5,10 phút này quyết định tất cả sự khác biệt.

  

LQM: Bây giờ thì hiểu vì sao ông viết tổng kết Hợp Lưu 12 năm, dường như ông thích liệt kê?

 

TV: Ðúng vậy, tôi mắc cùng bệnh liệt kê của ...nhà nghiên cứu Nguyễn Vy Khanh. Do làm việc trong ngành điện toán, tôi quen với điều nghiêng khái quát, điều nghiên chi tiết, điều nghiên kỹ thuật, mô hình dữ kiêïn, mô hình tổ chức, quan hệ chức năng, lập trình, kết quả thống kê, phân tích, danh mục, chỉ số, kiểm toán, phúc trình mỗi quý ...dù sau đó, các số liệu hoàn toàn nhân tạo  sai lệch 70% so với thực tế đưa đến bảo trì, hiệu đính và... công ty vứt bỏ toàn bộ hệ thống mua máy mới!

 

LQM: Là người đề xướng chủ đề Yêu của Hợp Lưu(7), xin ông cho biết ý kiến về từ Yêu ở nghĩa rộng và nghĩa hẹp? Và dường như ông luôn là người thực hiện các chủ đề sáng tác cho các tập san hải ngoại? Tại sao những chủ đề?

 

TV: Tôi thường hay lôi kéo bạn bè cùng viết truyện chung vì sáng tác phải có bạn mới vui. «Chủ đề» đầu tiên tôi thực hiện là tập hợp Những Cây Bút Trẻ tại Pháp, theo yêu cầu của chủ bút Hoàng Khởi Phong và tổng thư ký Cao Xuân Huy với ...trình bày Khánh Trường cho tạp chí Văn Học số 45 tháng 11.1989. Lúc đó, quy tụ được Nhược Thủy (Y Chi) với truyện ngắn tâm lý gia đình rất xúc động Dòng Sông Sa Mạc, Ngọc Khôi (đã mất), Văn Cũng Thường (đã đi chui qua Mỹ), và Sĩ Liêm (đã ngưng viết). Thời kỳ đó, anh Hoàng Khởi Phong thực hiện liên tiếp những số báo giới thiệu người viết trẻ, với Cao Huy, Cheo Reo, Uyên Nguyên, Thường Quán, Hoàng Ngọc-Tuấn, Hoàng Từ Dương ở Úc trên VH-41 tháng 6/89. Trước đó anh Nguyễn Mộng Giác «chuyên gia chủ đề» cũng đã làm vô vàn những chuyên đề, ‘‘9 Người Viết Trẻ’’ với Chân Phương, Hoàng Mai Ðạt, Nguyễn Hoàng Nam, Trần Trúc Giang, Nguyễn ý Thuần, Tạ Thái, Nguyễn Hiền Thảo, Nguyễn Phước Nguyên ở Mỹ và Nguyễn Thanh Hùng ở Hoà Lan trên VH-22 tháng 11/87, rồi ‘‘Các Cây Bút Nữ’’ với Nguyễn Thị Hoàng Bắc, Trân Sa, Phạm Thị Ngọc, Vũ Thùy Hạnh, Trần Thị Kim Lan, Như Chi, Nguyễn Thị Thanh Bình, Thuỵ Khuê’’ trên VH-33 tháng 10/88... Sang đến giai đoạn Hợp Lưu, họa sĩ  Khánh Trường cũng liên tục chủ đề Những Nhà Văn Nữ, Văn Cao, Mai Thảo, Bùi Giáng, Hoàng Xuân Hãn, Thanh Tục,v.v.. Tôi trưởng thành trong môi trường sáng tác và sinh hoạt của những tập san này, nên lây bệnh của mấy ông anh là đương nhiên.

 Thật sự là vào năm 89, khi thực hiện chủ đề đầu tay Những Cây Bút Trẻ tại Pháp, tôi hoàn toàn không ngờ là định mệnh sẽ đưa đẩy một thập niên sau, vô cùng bất ngờ khi Nam Dao từ Québec, Trân Sa từ Toronto, Thường Quán từ Melbourne, rồi Nguyễn Thị Ngọc Nhung từ Los Angeles sang Pháp, giữa khói cần sa mù mịt Trân Sa mua ở Hoà Lan và vấn cho tôi hút thử, với rượu vang của các chị Phan Thị Trọng Tuyến, Miêng, Mai Ninh, hoạ sĩ  Phan Nguyên, cả nhóm bỗng dưng «hưng phấn» rủ nhau đi thuê nhà chung trong truyện, chung câu văn nhập, với ‘‘kẻ lạ’’, không cho thấy mặt, không cho... giao tiếp thân xác, cấm kết có hậu! Ðã có những truyện ngắn rất bất ngờ: Nam Dao thuê nhà chung với Jésus đi ra đường gặp ...Karl Marx, Eric Nguyễn Việt thuê nhà chung với một người đàn bà là thần chiến tranh, Phan Nguyên thuê nhà với ma...  Rồi chia tay, bạn bè lại xa nhau. Hai năm sau, bỗng nhiên Miêng nhắc đến đề tài Truyện Tình Mùa Hè của Trân Sa bỏ bê bao năm, lại ầm ào, lôi kéo, rủ nhau một lần nữa. Lần này Trân Sa và Nam Dao muốn mở rộng phạm vi «toàn quốc», thư mời gởi đi lung tung, dưới sự bảo trợ của chủ biên Hợp Lưu là Phùng Nguyễn khi ấy. Phạm Thị Hoài đặt tựa Yêu nhưng rồi bận không tham dự, chị Phan Thị Trọng Tuyến nói tựa Yêu của Chu Tử... Nhưng rồi Yêu cũng ra đời với 36 tác giả trong ngoài nước. Sau đó hoạ sĩ Khánh Trường sau khi rời nhà thương, trở lại trông coi tạp chí, anh quyết định lên đường một lần nữa. Các chủ đề Thế Hệ Sau Chiến Tranh với 30 tác giả nội-ngoại và Tiểu Thuyết tiếp nối... Mục đích duy nhất của tất cả những tác giả cùng tham dự là cùng muốn gây lại sinh hoạt sáng tác, hâm nóng lại bầu không khí đã chùng xuống mấy năm vừa qua, tạo sinh khí, sinh động, ầm ĩ và biết đâu... bắt đầu một giai đoạn mới. Ngoài ra không còn mục đích nào khác.

Về ý nghĩa chữ Yêu, tôi không thể trả lời cô, vì giản dị, không thể định nghĩa tình yêu.

   

LQM: Ông nghĩ sao về ý kiến của một số độc giả và văn hữu cho rằng những tay viết nữ luôn luôn là những người đi tiên phong trên phưong diện Tình Dục?

 

TV: Tôi nghĩ ngược lại, các nhà văn nữ VN rất gìn giữ, không bao giờ viết hết suy nghĩ của họ. Gia đình, xã hội và truyền thống giáo dục Khổng giáo vây quanh, khiến nhà văn nữ VN mất tự do, tự kiểm duyệt, không muốn nghĩ đến hoặc nghĩ đến nhưng không thấy đẹp đẽ rồi lẩn tránh. Trước đây, ở miền Nam, Lệ Hằng, Nguyễn Thị Thuỵ Vũ, Nguyễn Thị Hoàng, Túy Hồng, Trần Thị Ngh là những hiện tượng cá biệt. Hôm nay, số lượng nữ tác giả viết về tình dục một cách bạo dạn, không trốn tránh, vẫn còn rất ít. «Miền dục lạc» như Trân Sa gọi, gồm Lê Thị Thấm Vân, Mai Ninh, Nguyễn Hương, Thơ Thơ cùng với Lê Quỳnh Mai mới đây trong văn xuôi, Ðỗ Lê Anh Ðào, Trần Minh Quân, Vy Thuỳ Linh, Phan Huyền Thư trong thơ, cũng mới đây.

Một trong những nguyên nhân tuy không chính yếu, nhưng có ảnh hưởng, nằm trong tiêu chỉ đạo đức-mỹ tục vô cùng cổ điển của các toà báo. Mỗi lần đăng được một bài thơ bị người Việt xem là «bạo» ïlà mỗi một lần tác giả và ban biên tập phải tranh đấu cho dòng thơ này cất tiếng. Ngay Hợp Lưu, một tạp chí vung khẩu hiệu khai phá cấp tiến, bước vào thế kỷ 21 vẫn vô cùng ngần ngại với sinh dục. Chủ đề Yêu, Hợp Lưu không đăng trích đoạn Âm Vọng Tình Ta của Lê Thị Thấm Vân, thơ ca Sex của Trần Minh Quân và Lê Thị Thấm Vân luôn gây dị ứng. Tức quá, có lần tôi đem Âm Vọng Tình Ta của Lê Thị Thấm Vân gởi cho tạp chí Văn Học Nghệ Thuật Liên Mạng, được xem một tạp chí trẻ, của tuổi trẻ trưởng thành ngoài nước, của tuổi trẻ «thấm đẫm» văn hoá phương Tây, nhưng... chủ biên Phạm Chi Lan không đăng!

Tôi luôn luôn ngạc nhiên trước những hàng rào này. Không có hoạ sĩ Khánh Trường, chắc chắn phong trào sinh dục hoá thi ca không bao giờ có thể ra đời trong văn chương VN hải ngoại. Hiện tại, tạp chí điện tử Tiền Vệ của nhà phê bình Nguyễn Hưng Quốc, là tạp chí duy nhất không sợ hãi tình dục lẫn các bộ phận sinh dục.    

 

LQM: Thập niên ba mươi, Thơ mới đã là một bước đột khởi trong dòng văn chương Việt Nam. Theo ông, Thơ Tân Hình  Thức hiện nay có thể nối tiếp nhiệm vụ gây hưng phấn cho nền thi ca Việt Nam hay không? Ðộc giả chưa bao giờ thưởng thức một bài thơ nào của ông. Có phải nhà văn Trần Vũ bị« dị ứng» với Nàng Thơ?

 

TV: Tôi không quan tâm đến thi ca. Tôi chỉ đọc có hai loại sách duy nhất, tiểu thuyết và các tài liệu chiến tranh Ðông Dương, Algérie, đệ nhất & đệ nhị thế chiến, thủy chiến Thái Bình Dương... Chuyên môn chính của tôi là các binh chủng Lê Dương, Nhảy Dù, Panzer, Waffen SS, Luftwaffe,... Thuở niên thiếu khi bước chân lên trung học đệ nhất cấp, lúc còn ở Sàigòn, tôi đã sớm say mê tủ sách Hitler của nhà Sông Kiên, Samourai Những Trận Không Chiến Dữ Dội Nhất Lịch Sử Thái Bình Dương của trung úy Saburo Sakai, Erwin Rommel Con Cáo Già Sa Mạc của Desmond Young, Hitler và Mặt Trận Miền Ðông của Paul Carell là những sách gối đầu giường của tôi khi ấy. Lớn hơn một chút, khi bạn bè mê thơ Nguyên Sa, Trần Dạ Từ, Phạm Thiên Thư, mê truyện Nguyễn Thanh Trịnh, Từ Kế Tường, Ðinh Tiến Luyện, Nhã Ca,v.v.. thì tôi mê Bố Già (do Ngọc Thứ Lang dịch), Ông Mãnh Súng Vàng (do Hoàng Hải Thủy dịch), Z-28 Hận Vàng Aán Ðộ (Người thứ Tám), Về Miền Ðất Hứa (do Thế Uyên dịch), Chiến Hữu (Vũ Kim Thư dịch) và dĩ nhiên Tử Thủ Căn Cứ Hoả Lực 30 Hạ Lào của đại úy Trương Duy Hy giải nhất văn chương... phủ tổng thống VNCH. Sang đến Pháp, tôi rơi ngay vào kho sách chiến tranh của các sĩ quan Pháp tham chiến tại VN, từ trung tướng Navarre đến trung tá Grauwin y sĩ trưởng Ðiện Biên Phủ, từ ký của Francis Garnier đang viêùt dở dang cho báo Figaro, đến tiểu thuyết Sensualité của Henry Rivière mới viết 2 chương ở Hà Nội khi bị Lưu Vĩnh Phúc chém chết ở Ô Cầu Giấy... Tôi bị văn xuôi cùng chiến tranh cám dỗ và không còn thời gian cho những thứ khác. Nếu cô gọi đó là dị ứng thi ca, thì đó là dị ứng thi ca.

       

LQM:  Trần Vũ có hoài bão riêng nào cho bản thân và cho Hợp Lưu?

 

TV: “Hoài bão” cho Hợp Lưu? Câu hỏi này dành cho hoạ sĩ Khánh Trường chủ biên tạp chí đúng hơn. Tôi chỉ mong muốn, các tập san văn chương VN trên giấy cũng như trên mạng, cùng nhà xuất bản ngoài nước trả tác quyền và nhuận bút cho các tác giả, ký kết văn kiện hợp đồng đàng hoàng y như Tây phương. Ðến lúc đó hẳn ghi copyright Tiền Vệ, Talawas, Hợp Lưu, Văn, Văn Học... Ðây là điều kiện chuyên nghiệp đầu tiên trước khi đòi hỏi các tác giả chuyên nghiệp trong sáng tác. Dương Thu Hương có lần tuyên bố: Cái nhục lạc hậu nghèo đói, cũng nhục như cái nhục mất nước. Tôi muốn thêm: Cái nhục không trả tiền nhuận bút, cũng nhục như cái nhục mất nước.

Muốn vậy, nhưng tôi biết rõ các tạp chí không có lợi tức. Không nhuận bút ở ngoài nước đã thành một thông lệ. Một truyền thống. Và hơn một truyền thống, một định mệnh.

 “Hoài bão” riêng cho bản thân? Có thể về hưu tức khắc, ngay bây giờ, có một biệt thự sát biển ở Phù Két-Thái Lan và nhiều biệt thự khác ở Nha Trang, Ðà Lạt, Sàigòn, có thời gian viết tiểu thuyết, dịch sách chiến tranh Ðông Dương, có hầm rượu vang nhiều ngàn chai và tôm hùm, bào ngư, hào sống, cá sống, và bạn bè đến uống rượu mỗi chiều cùng ngắm mặt trời trước biển trong tiếng cười vang suốt đại dương...

 

LQM: Là người được mô tả thân thiết với họa sĩ Khánh Trường. Trần Vũ có cảm tưởng ra sao khi nghe tin hoạ sĩ Khánh Trường, sau tai biến mạch máu não, lại rơi vào bệnh nan y khác: ung thư thanh quản.

 

TV: Tôi không biết phải trả lời cô như thế nào, vì tôi vẫn chưa hình dung rõ ràng chuyện gì đang xảy đến. Tôi biết là hoạ sĩ Khánh Trường đang gặp nguy hiểm, và tôi nghĩ đang có cùng cảm giác của anh, ngày anh đến thăm Mai Thảo trong căn gác phía sau nhà hàng Song Long, thấy Mai Thảo không đi được nữa. Mai Thảo đã luôn là một người anh của hoạ sĩ Khánh Trường. Tình cảm của anh dành cho Mai Thảo thế nào, thì tình cảm của tôi dành cho anh y vậy. Tôi tin vậy. Lúc này tôi không biết làm gì khác hơn là phụ lặt vặt với anh chuyện toà báo, giống như mình có ông anh mở một cửa hiệu buôn bán gì đó, không có lời, nhưng ông anh vẫn bán, vẫn đứng trông hàng mỗi ngày từ sáng đến chiều để gặp bạn bè, rồi đột nhiên anh ngã bệnh, tôi chạy ra trông hàng thay, cũng chẳng để buôn bán hay kiếm lời chi hết, chỉ để gặp bạn bè, thông báo cho họ hay chưa đóng cửa hiệu, còn mở. Ðến khi nào, bao giờ, thì tôi không biết. Tôi chỉ biết hoạ sĩ Khánh Trường đang ốm đau và anh cần có người phụ giúp. Tôi phụ anh tất cả những gì tôi có thể phụ được, và nghĩ ngày mai anh sẽ ra cửa hiệu trở lại, lại cười khà, và tôi sẽ lại bỏ đi chơi với Thận Nhiên, Trân Sa, Nguyễn Hương, Thấm Vân, Nguyễn Hà ý Nhi, Nam Dao, Thế Giang cho đến khi lại nghe anh kêu làm cho anh cái này, cái kia. Tôi đã quen với bao nhiêu năm hoạ sĩ Khánh Trường hứng mũi chịu sào cho tôi phá phách, tôi không thể hình dung ra sự thay đổi nào khác. Hoạ sĩ Khánh Trường, hoạ sĩ Võ Ðình, anh Trương Vũ, là các ông anh lớn của tôi. Họ luôn ở bên cạnh, che chở, la rầy, và chỉnh đốn những khi cần thiết. Chị Nguyễn Thị Hoàng Bắc, chị Thụy Khuê, chị Trần Thị Lai Hồng, chị Phan Thị Trọng Tuyến là những bà chị lớn... Họ là gia đình tôi. Thường khi tôi hay phá phách chọc tức họ, nhưng mỗi khi họ gặp hung hiểm, tôi khổ vô cùng. Mỗi lần như vậy, tôi đều nghĩ đến cuộc vượt biển của mình, nghĩ đến lúc đóng bè trôi giạt giữa biển Ðông, nghĩ đến các trại cô nhi viện tôi đã sống suốt năm năm, và nghĩ tôi đã may mắn lắm có một gia đình ấm cúng như vậy, tựa máu mủ, ở bên này biển.

Lê Quỳnh Mai thực hiện

 

 

 

 

 

© Copyright Trần Vũ